Lịch sử trà Việt Nam
Lịch sử trà Việt Nam
LỊCH SỬ TRÀ VIỆT NAM
I. Khảo cổ học và lịch sử:
1. Khảo cổ học:
Theo những khảo sát vẫn được tiếp tục tiến hành để đi tìm vùng trà đầu tiên. Cho đến nay, một điều có thể chắc chắn là Việt Nam nằm trong vùng trà nguyên sản của thế giới và có giống trà bản địa đặc trưng. Và những bằng chứng khảo cổ học sớm từ Văn hóa Hòa Bình, có niên đại hơn 13.000 năm trước đã cho thấy điều đó.
Vào năm 1960, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hạt trà có niên đại 13.200 năm tuổi ở di tích hang Con Moong, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Những hiện vật được tìm thấy thuộc Văn hóa Phùng Nguyên (3000-1330 TCN) của Lạc Việt là những nồi gồm có chân kê để nấu trà.
Dấu tích của cây trà và lá trà hóa thạch cũng được phát hiện ở Phú Thọ, đất tổ Hùng Vương. Ngay trong tư liệu thành văn đầu tiên của Khổng Tử vào thế kỷ thứ 4 TCN cũng viết về tập quán uống trà của dân Bách Việt. Như vậy, Việt Nam có một lịch sử trà đã lâu đời. Những bằng chứng về tư liệu, khảo cổ, nghiên cứu đều khẳng định miền Bắc Việt Nam thuộc vùng khởi phát cho những cây trà đầu tiên.
Cây Chè Shan tuyết cổ thụ.
2. Theo dòng lịch sử:
Một trong những loại trà Việt Nam được lịch sử ghi lại là “trà thơm” do Đinh Liễn cống cho nhà Tống vào thế kỷ thứ 10. Do đó, trà ướp hương Việt Nam xem như đã có dòng chảy ít nhất hơn 1000 năm.
Những thế kỷ trôi qua, trà ở Việt Nam đã phát tiển dòng trà Thiền thời Lý với họa tiết sen phổ biến trên các trà cụ (nhưng chưa có trà sen), rồi trà ướp hoa lan vào thế kỷ 14 trong thơ ca của Trần Nguyên Đán, trà Tước Thiệt được viết trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi vào thế kỷ 15, trà sen xuất hiện vào thế kỷ 16 được biết qua bài thơ chữ Nôm Tịnh cư niên thể phú của ẩn sĩ Nguyễn Hãng, trà Bạch Hào vào thế kỷ 18 trong Thượng kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông, trà Ô Long Việt xuất hiện vào thế kỷ 19, trà Sơn kim cúc chữa bệnh mắt cho Thái hậu Từ Dũ,…
Một số loại trà và phong cách trà được ghi nhận trong lịch sử nhưng dường như đã thất truyền như Mạc trà vào thế kỷ 16, trà Lược của công chúa Mai Hoa ở Thanh Hóa, triết lý Trà Nô của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, Tây Sơn Trà ở Phú Yên, trà Cam Khổ chuyên để tiến chúa Nguyễn…
II. Những hãng trà đầu tiên của Việt Nam
Nhiều trà tộc Việt cũng ra đời và có danh tiếng như dòng họ Nguyễn Đình buôn bán trà Mạn Hảo, hiệu trà Chính Thái có từ thời Lê bán trà Shan và các trà khác, ông tổ trà Tân Cương là Vũ Văn Hiệt (1883-1945) khởi dựng dòng trà Tân Cương tại Thái Nguyên, sau này có trà Đỗ Hữu, Quốc Thái, Bạch Tượng,…
Từ thế kỷ 19, trà Huế xuất hiện, đồng thời trà Phú Hội ở trấn Biên Hòa ra đời, trở thành danh trà đất phương Nam.
Những hãng trà đầu tiên của Việt Nam xuất hiện từ thời kỳ Pháp thuộc vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi người Pháp bắt đầu xây dựng các đồn điền trà để phục vụ cho xuất khẩu. Đây là giai đoạn mà các hãng trà Việt Nam bắt đầu được thành lập và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền công nghiệp trà Việt. Dưới đây là một số hãng trà nổi bật trong giai đoạn này:
1. Đồn Điền Trà Phú Thọ
- Thời gian thành lập: Cuối thế kỷ 19.
- Đồn điền trà Phú Thọ được người Pháp xây dựng với mục tiêu khai thác và sản xuất trà để xuất khẩu sang châu Âu. Đây là một trong những vùng trà đầu tiên của Việt Nam được khai thác ở quy mô lớn.
- Trà Phú Thọ nổi tiếng với chất lượng tốt và được xuất khẩu sang các nước Pháp, Anh, và nhiều quốc gia châu Âu khác. Khu vực này đã trở thành cái nôi của ngành công nghiệp trà Việt Nam thời kỳ đầu.
2. Đồn Điền Trà Bảo Lộc (Lâm Đồng)
- Thời gian phát triển mạnh mẽ: Đầu thế kỷ 20.
- Vùng Bảo Lộc, Lâm Đồng cũng là một trong những nơi người Pháp phát triển các đồn điền trà lớn, nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và độ cao lý tưởng cho việc trồng trà.
- Trà Bảo Lộc đã trở thành một trong những sản phẩm trà hàng đầu của Việt Nam, đặc biệt là các loại trà đen (hồng trà) và trà ô long, nhờ vào kỹ thuật chế biến hiện đại được người Pháp mang vào.
3. Công Ty Trà Cầu Đất (Cầu Đất Farm)
- Thời gian thành lập: Khoảng năm 1927.
- Nông trại trà Cầu Đất, thuộc khu vực Đà Lạt, Lâm Đồng, được thành lập bởi người Pháp với tên gọi ban đầu là 'Société Francaise des Plantations de Thé'. Đây là một trong những đồn điền trà lớn và lâu đời nhất tại Việt Nam.
- Cầu Đất Farm nổi tiếng với các loại trà xanh, trà đen, và trà ô long chất lượng cao. Đến nay, nông trại này vẫn tiếp tục phát triển và được biết đến là một trong những nhà sản xuất trà uy tín tại Việt Nam.
4. Công Ty Chè Phú Bài (Thừa Thiên Huế)
- Thời gian phát triển: Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
- Người Pháp đã xây dựng các đồn điền trà tại vùng Phú Bài, Thừa Thiên Huế, và phát triển ngành công nghiệp chế biến trà đen. Trà từ Phú Bài không chỉ nổi tiếng ở trong nước mà còn được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế.
5.Hãng trà De Robe (Hội An hay thương cảng FaiFo)
- Không chỉ là nơi diễn ra hoạt động thu mua, buôn bán trà, ở Hội An những năm 1930, 1931 còn có xưởng sao chế chè (trà) đó là xưởng chè De Robe (gần ngã tư Phan Châu Trinh - Nguyễn Huệ hiện nay).
- Đặc biệt, để đảm bảo hoạt động thương mại cũng như trưng bày, quảng cáo các mặt hàng nông nghiệp và thương nghiệp nói chung của Quảng Nam và vùng Tourane (Đà Nẵng), bên cạnh chợ cố định, người Pháp đã tổ chức các cuộc chợ phiên tại Hội An vào các năm 1935, 1936, 1937, 1939. Các mặt hàng trưng bày tại chợ phiên rất đa dạng, phong phú, gồm nhiều mặt hàng lâm thổ sản, hải sản, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ gia dụng, kỹ thuật... Trong đó, các sản vật trưng bày như trà, hạt tiêu, sáp, quế, bông, mật ong, đậu bắp, khoai, sắn, mè, mía,... có nguồn gốc từ phủ Duy Xuyên, Thăng Bình, Điện Bàn, huyện Hoà Vang, Tiên Phước, Quế Sơn.
- Trong lịch sử, cũng không ít lần việc tiêu thụ trà bị ảnh hưởng do hoạt động thương mại của người Hoa. Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép, năm Khải Định thứ 5 (1920), tháng 10 ngày 21, vua coi triều. Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ Nguyễn Hữu Bài tâu nói “Khánh Hoà bị bão, nhà bị tốc mái rất nhiều, Thanh Hoá cũng bị lụt lớn...”. Vua nói “Quảng Nam thế nào?”. Nguyễn Hữu Bài tâu nói “Quảng Nam chỉ có Tiên Phước đói lớn, duyên do là vì hạt ấy trước nay chỉ dựa vào mối lợi của trà và quế. Nay những sản vật ấy không bán được, không có gì tư cấp nên như thế”.
- Như vậy có thể nói Quảng Nam là một trong những địa danh có sản xuất trà sớm hang đầu của Việt Nam do có thương cảng FaiFo (Hội An) là một trong những thương cảng quốc tế lớn của Đông Nam Á lúc bấy giờ.
5. Những Đặc Điểm Chung của Các Hãng Trà Đầu Tiên
- Kỹ thuật sản xuất hiện đại: Người Pháp đã mang vào Việt Nam các kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và chế biến trà hiện đại. Điều này giúp nâng cao chất lượng và năng suất trà của các đồn điền trà lớn.
- Xuất khẩu ra thị trường quốc tế: Mục tiêu chính của các hãng trà này là xuất khẩu, do đó, các sản phẩm trà từ Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như châu Âu và Mỹ từ những năm đầu thế kỷ 20.
- Đóng góp vào văn hóa trà Việt Nam: Dù ban đầu các đồn điền trà do người Pháp lập nên, nhưng sau khi họ rời đi, những nông trại và công ty trà này vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển dưới sự quản lý của người Việt, đóng góp to lớn vào ngành công nghiệp trà trong nước.
6. Tầm Quan Trọng Của Các Hãng Trà Đầu Tiên Đối Với Nền Công Nghiệp Trà Việt Nam
- Những hãng trà đầu tiên này đã đặt nền móng cho ngành công nghiệp trà Việt Nam phát triển bền vững như ngày nay. Các vùng trà nổi tiếng như Thái Nguyên, Lâm Đồng, và Phú Thọ hiện vẫn giữ được vị thế là các vùng sản xuất trà chủ lực của cả nước.
- Kinh nghiệm và kỹ thuật trồng trà do người Pháp mang vào đã được người Việt kế thừa và phát triển, giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia sản xuất và xuất khẩu trà lớn trên thế giới.
III. Các giống trà Việt Nam:
Hiện tại, Việt Nam có trên 170 giống trà, khá đa dạng, mà ta có thể điểm qua 10 giống khá tiêu biểu như sau:
- Giống trà trung du, cũng là giống trà bản địa, tiêu biểu như trà Tân Cương, Thái Nguyên. Dùng để chế biến trà xanh.
- Giống trà Shan, cũng là trà bản địa, có Shan lá to và Shan lá nhỏ. Dùng để chế biến đa số trà xanh, trà đen, trà vàng.
- Giống Shan Chất Tiền: được thu thập vào năm 1918, hợp với trung du và núi cao. Dùng để chế biến trà đen.
- Giống Phi: được nhập từ Ấn Độ vào Phú Hộ năm 1920, phù hợp với Nghệ An. Dùng để chế biến trà đen chất lượng tốt.
- Giống LDP1 và LDP2: Trà lai từ Đại Bạch Trà và PH1, được công nhận là giống quốc gia và đã được trồng phổ biến ở Nghệ An, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên. Dùng để chế biến trà xanh và trà đen.
- Giống Kim Tuyên (Kim Huyên): nhập từ Đài Loan. Dùng để chế biến trà xanh, Ô Long và trà đen.
- Giống Thúy Ngọc: nhập từ Đài Loan. Dùng để chế biến Pao chủng và Ô Long.
....
IV. Trà Việt Nam xuất đi thế giới:
Từ thế kỷ 17 trở đi, trà từ phương Đông đi ra thế giới theo ba con đường bộ và biển. Có thể nói, trà ngay lập tức thay đổi thói quen uống của các châu lục tiếp xúc với nó. Trà khẳng định vị trí vững chãi của mình trong cuộc sống nhân loại.
Trà Việt đã được vua Gia Long cấp giấy xuất khẩu đi Pháp lần đầu tiên vào năm 1817 và 1819. Vào năm 1899, trà Việt Nam đã được bán tại Paris, Pháp, với tổng lượng xuất khẩu tới 131.391 tấn. Và đến năm 1930, trà Việt đã có mặt tại Mỹ. Vào năm 1935, trà Tân Cương của Việt Nam đã đạt giải nhất Hội chợ đấu xảo Hà Nội, sau đó được xuất khẩu đi Ấn Độ.
Theo thống kê năm 2019 của FAO - Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, Việt Nam đứng thứ 5 trong số những quốc gia sản xuất trà nhiều nhất thế giới. Bốn quốc gia đứng trước Việt Nam gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya, Sri Lanka. Không phải ngày một ngày hai Việt Nam có thứ hạng này, đằng sau đó là một lịch sử của con đường trà Việt trên bản đồ thế giới.
V. Trà Việt Nam ngày nay:
Năm 1988, Hiệp hội Chè Việt Nam (VITAS) được thành lập. Đến năm 1996, Tổng Công ty Chè Việt Nam ra đời.
Hiện nay, gần như các vùng miền của Việt Nam đều có các vùng trồng trà, các cơ sở sản xuất, các hãng trà, các nghệ nhân đang trồng, sản xuất và kinh doanh về trà.
Các sự kiện và Lễ hội, các hoạt động về trà được diễn ra nhiều Tỉnh Thành trên cả nước như:
- Lễ hội trà ở Lâm Đồng
- Lễ hội trà ở Thái Nguyên
- Lễ hội trà Việt ở Hội An vào năm 2022
Nhìn dòng chảy và lịch sử trà Việt Nam, người Việt hiện nay có thể tự hào về lịch sử, văn hóa và chất lượng trà của mình. Trong tương lai, trà Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành sản phẩm di sản văn hóa của Việt Nam và Thế giới.
- fnTemplate yêu cầu:
htmlTintucTemplate- TenHamDXL:
Tintuc- Module:
Tintuc- Hàm gọi:
DanhMucSSRFull.RenderDanhMucSSR- Cách gọi adapter:
SSRAdapter.RenderDanhMucSSR(jsonTop, "Tintuc", "htmlTintucTemplate", 30, "0", "")- jsonURL:
https://demomuagem.181.atoz.vn/ww2/module.tintuc.ashx?id=77188&sl=30&pageid=1